Thơ Cũ Là Gì? Cuộc Bút Chiến Thơ Mới Và Thơ Cũ Ra Sao?
  1. Home
  2. Câu Hỏi
  3. Thơ Cũ Là Gì? Cuộc Bút Chiến Thơ Mới Và Thơ Cũ Ra Sao?
admin 4 giờ trước

Thơ Cũ Là Gì? Cuộc Bút Chiến Thơ Mới Và Thơ Cũ Ra Sao?

Bạn đang tìm hiểu về “Thơ Cũ” và cuộc tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ trong văn học Việt Nam? CAUHOI2025.EDU.VN sẽ cung cấp cho bạn cái nhìn sâu sắc về vấn đề này, từ đó hiểu rõ hơn về sự thay đổi và phát triển của thơ ca Việt Nam. Hãy cùng khám phá những điều thú vị xoay quanh thơ ca truyền thống.

1. Thơ Cũ và Cuộc Bút Chiến Thơ Mới – Thơ Cũ: Khái Quát Lịch Sử

1.1. Bối Cảnh Ra Đời của Thơ Mới

Vào những năm đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam chứng kiến sự giao thoa mạnh mẽ giữa văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông. Điều này đã tác động sâu sắc đến văn học nước nhà, đặc biệt là lĩnh vực thơ ca. Thơ cũ, với những quy tắc niêm luật chặt chẽ, dần trở nên gò bó và không còn đáp ứng được nhu cầu biểu đạt của các nhà thơ trẻ. Theo một nghiên cứu của Viện Văn Học Việt Nam, sự xuất hiện của thơ mới là một tất yếu lịch sử, phản ánh khát vọng đổi mới và tự do sáng tạo của giới trí thức đương thời.

1.2. Sự Xuất Hiện của Thơ Mới và Phản Ứng Ban Đầu

Năm 1932, bài thơ “Tình Già” của Phan Khôi xuất hiện trên báo Đông Pháp thời báo, đánh dấu sự ra đời của phong trào Thơ mới. Phan Khôi, vốn là một nhà cựu học, đã mạnh dạn phê phán luật thơ cũ là trói buộc, tù hãm sự sáng tạo. Sự kiện này đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ từ phái thơ cũ.

Nhà thơ Tùng Thành đã viết bài thơ “Nhàn Ngâm” để đả kích Phan Khôi:

“Trách bác Phan Khôi khéo rắc rối,/ Noi gương Hồ Thích làm thơ mới/ Câu dài, câu ngắn chẳng ra sao,/ Vần đục, vần đơn nghe thật thối,/ Hăng hái, Thị Kiêm diễn thuyết khen,/ Nhiệt thành, Thế Lữ lao công mãi./ Phải chăng muốn diễn ý tân kỳ?/ Hay tại làm thơ cũ kém giỏi?”.

1.3. Phe Phái Hình Thành và Cuộc Tranh Luận Nảy Lửa

Cuộc tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ nhanh chóng lan rộng trên các mặt báo, hình thành hai phe rõ rệt.

  • Phe ủng hộ thơ cũ: Các báo An Nam tạp chí, Văn học tạp chí, Văn học tuần san, Công luận, Tiếng dân, Tin văn
  • Phe ủng hộ thơ mới: Các báo Phong hóa, Ngày nay, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Loa, Hà Nội báo… Trong đó, báo Phong hóa nổi lên như một “hùng hổ” của phong trào thơ mới.

Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, với chủ trương đổi mới, dĩ nhiên đứng về phía những nhà thơ mới.

1.4. Thái Độ Ban Đầu Của Tản Đà

Tản Đà, một nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ, ban đầu giữ thái độ thận trọng và muốn đứng ngoài cuộc tranh luận. Mặc dù không ưa thơ mới, ông không cho phép cơ quan ngôn luận của mình là tờ An Nam tạp chí tấn công thơ mới.

Đến cuối năm 1932, khi thấy báo Phong hóa làm quá, ông mới đăng lên báo An Nam tạp chí số 6 bài thơ “Ông Tản Đà nhắn bạn Phong hóa” (Tửu nhập thi xuất), nhưng tuyệt nhiên không đả động gì đến thơ mới.

“Mấy lời nhắn bảo anh Phong hóa,/ Báo đến như anh thật láo quá!/ Từ tháng đến năm không ngớt mồm,/ Sang năm Quý Dậu (1993) phải kiếm khóa./ Ông nỉnh ông ninh có liệu mà …/ Tái tứ tái tam đừng trách nhá!/ Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau,/ Nhờ gió thổi đi mong cảm hóa”.

Ngay lập tức, báo Phong hóa số 28 (30/12/1932) phản ứng bằng cách đăng bài họa nguyên vận để đả kích Tản Đà:

“Anh lên giọng rượu khuyên Phong hóa,/ Sặc sụa hơi men khó ngửi quá./ Đã dạy bao lần, tai chẳng nghe,/ Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa./ Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu,/ Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!/ Phong hóa mà không hóa nổi anh,/ Túy nhân quả thật là nan hóa!”

Sau bài thơ họa nguyên vận này, báo Phong hóa còn đăng nhiều bài đả kích Tản Đà vì coi ông là lãnh tụ của phái thơ cũ.

1.5. Những Lời Chỉ Trích Thơ Mới Từ Phái Thơ Cũ

Phái thơ cũ không tiếc lời chỉ trích, chê bai thơ mới, cho rằng những người làm thơ mới đều bất tài, không làm nổi thơ luật nên mới phải làm thơ mới, là một loại thơ dễ dãi về kỹ thuật, là những người chẳng hiểu gì về thơ cả.

“Nghĩa lý vơ vơ rồi vẫn vẫn,/ Thanh âm ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ./ So với Âu học như dưa đắng,/ Sánh với Âu văn tựa mít xơ…”

“Lạy bác xin đừng nói đến thi,/ Nghĩa thi chưa hiểu, hãy im đi”.

Họ gọi những nhà thơ mới là bọn mù và dốt:

“Chẳng khác anh mù lại nói mơ,/ Chẳng qua một bọn dốt làm thơ”.

1.6. Tản Đà “Đụng Độ” Phan Khôi

Năm 1934, khi cuộc bút chiến đã đến hồi gay gắt, trên báo Phụ nữ tân văn số xuân năm ấy, Tản Đà có một bài “hài đàm” nói móc Phan Khôi, người đã từng “đụng độ” với ông mấy lần về vụ Nho giáo, vụ “Cái cười của con Rồng cháu Tiên”.

Bài hài đàm mở đầu bằng một đoạn văn xuôi rồi kết thúc bằng một bài “thơ mới”:

“Đồn là đồn/ Thơ là thơ/ Thơ thời còn có chữ, đồn có tơ/ Nếu không phá cách, vứt điệu luật/ Khó cho thiên hạ đến bao giờ/ Bá Nha xa/ Lý Bạch khuất/ Thơ có Họ phán, đồn họ Quách/ Thơ có chữ/ Đồn có tơ/ Đồn thì ngớ ngẩn, thơ vẫn vơ/ Tài tử văn nhân thường rứa rứa/ Bút huê ngao ngán bận đờ thơ”.

Phan Khôi đã không trả lời bài thơ này. Điều đáng chú ý là tờ Phụ nữ tân văn, trước nay vẫn đứng về phe bênh vực thơ mới, đã từng đăng bài thơ “Tình Già” của Phan Khôi mà nay lại đăng bài của Tản Đà móc Phan Khôi.

1.7. Chế Giễu Thơ Cũ Sáo Mòn

Các nhà thơ mới thường hay chê các nhà thơ cũ ưa dùng những từ ngữ và hình ảnh cũ kỹ sáo mòn: hễ mùa xuân thì trăm hoa đua nở, mùa hạ có tiếng cuốc tiếng ve, mùa thu thì sương sa gió thổi, lá ngô đồng rụng, mùa đông thì tuyết phủ, tuyết ngậm mặc dù ở Việt Nam chẳng bao giờ có tuyết.

Nhân Tản Đà cho đăng bài “Cảm thu, tiễn thu” trong đó có những chữ: gió thu hiu hắt, sương thu lạnh, lá thu rơi rụng đầu ghềnh, cỏ vàng cây đỏ…, Tú Mỡ bèn làm một bài hát nói khôi hài để chế giễu lối làm thơ sai sự thực, trong đó có mấy câu: “Cây tươi tốt, lá còn xanh ngắt,/ Bói đâu ra lác đác ngô vàng./ Trên đường đi nóng dãy như rang,/ Cảnh tuyết phủ mơ màng thêm quái lạ!”

1.8. Nhất Linh Chế Giễu Thơ Phương Lang

Trên báo Phong hóa số 31, Nhất Linh chế nhễu thơ của Phương Lang, một nhà thơ cũ:

“Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại bài thơ ấy ra đây lần nữa: Mặt bẩn sao chưa lau?/ Con ra lấy cái thau./ Đổ nước, mang khăn mặt,/ Mau!

Thơ như thế sao gọi là thơ được? Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi. Nhất Linh lại xin bắt chước ông Phương Lang làm bài thơ theo lối ấy:

*“**Trông vào nồi, cơm hết/ May còn miếng cháy giòn/ Ăn với cá kho mặn,/ Ngon!*

(Lạc quan)

*“**Tay tôi mụn ghẻ đầy,/ May sao gặp thuốc hay./ Bôi được một tuần lễ,/ Khỏi ngay!”*

(Mừng khỏi bệnh)*

1.9. Lưu Trọng Lư Chế Giễu Các Nhà Thơ Cũ

Trên tờ Hà Nội báo ngày 19/2/1936, Lưu Trọng Lư “nở một nụ cười kiêu hãnh” đăng bài thơ thất ngôn sách họa chế giễu các nhà thơ cũ:

“Đôi lời nhắn nhủ bạn làng Nho,/ Thơ thẩn, thẩn thơ, khéo thẩn thờ./ Nắn nót miễn sao nên bốn vế,/ Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ!”

Không thấy ai họa lại, có lẽ hoặc là vì xem thường, hoặc là vì tự ái.

1.10. Thơ Mới Chiếm Ưu Thế

Phong trào thơ mới lên rầm rộ, lấn át hẳn thơ cũ, chiếm địa vị ưu thắng trên thi đàn. Tuy nhiên, bên cạnh những bài thơ hay cũng có không ít những bài thơ dở.

Khái Hưng, một cột trụ của báo Phong hóa – tờ báo nhiệt liệt bênh vực thơ mới – có bài đăng trên báo này đả kích những người làm thơ mới quá dễ dãi với mình, cho ra đời những đứa con thiếu tháng.

Trong khi đó, nhà thơ Thế Lữ không tranh luận ồn ào, chỉ cặm cụi làm thơ và cho ra đời những bài thơ hay, có chất lượng rất cao như: Nhớ rừng, Tiếng sáo Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng…, xây dựng một nền tảng vững chắc cho thơ mới.

1.11. Cuộc Bút Chiến Đi Đến Hồi Kết

Cuộc bút chiến kéo dài đến năm 1936 thì nhạt dần rồi tàn hẳn. Thơ mới nghiễm nhiên chiếm ưu thế trên thi đàn rồi đi vào lớp học, đẩy lùi thơ cũ vào dĩ vãng để nằm im dưới lớp bụi thời gian.

1.12. Sự Ân Hận Muộn Màng

Khi thơ mới đã thắng thế rồi, người ta bắt đầu nghĩ lại và cảm thấy ân hận về những điều đã làm trước đó. Trước kia, ai nấy đều đổ xô vào mỉa mai, châm biếm, chế giễu Tản Đà thì từ năm 1938, Tản Đà được coi như vị thánh sống của làng thơ.

Ngay cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước kia công kích Tản Đà là thế mà nay cũng cho đăng nhiều bài của Văn Bình, Xuân Diệu, Khái Hưng trên báo Ngày nay ca tụng công lao và sự nghiệp văn chương của Tản Đà. Tinh thần hòa giải ấy đã dần dần xóa đi sự hiềm khích giữa hai phái thơ cũ và thơ mới.

1.13. Thơ Mới Thành Thơ Cũ

Từ đó đến nay cũng đã ngót bảy mươi năm, thơ mới ngày ấy nay đã trở thành thơ cũ. Một thời đại trong thi ca đã khép lại, nhưng dư âm của những ngày sôi động ấy hẳn sẽ còn vang vọng mãi trên thi đàn.

2. Đặc Điểm Của Thơ Cũ

2.1. Niêm Luật Chặt Chẽ

Thơ cũ tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về niêm, luật, vần điệu, số câu, số chữ trong mỗi câu. Các thể thơ phổ biến như:

  • Thất ngôn bát cú Đường luật: Mỗi bài gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, tuân thủ luật bằng trắc, niêm đối chặt chẽ.
  • Thất ngôn tứ tuyệt: Mỗi bài gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ, niêm luật tương tự thất ngôn bát cú.
  • Ngũ ngôn: Các thể thơ 5 chữ.

2.2. Sử Dụng Hán Việt Nhiều

Thơ cũ thường sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển tích, điển cố, tạo nên vẻ trang trọng, cổ kính. Điều này đôi khi gây khó khăn cho người đọc hiện đại trong việc tiếp cận và hiểu ý nghĩa của bài thơ.

2.3. Đề Tài, Cảm Xúc Hạn Chế

Đề tài trong thơ cũ thường xoay quanh những chủ đề quen thuộc như:

  • Tình yêu thiên nhiên: Ca ngợi vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây, hoa lá.
  • Tình yêu quê hương: Thể hiện nỗi nhớ nhà, lòng tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc.
  • Tình bạn: Ca ngợi tình bạn cao đẹp, thủy chung.
  • Triết lý nhân sinh: Suy ngẫm về lẽ sống, về cuộc đời.

Cảm xúc trong thơ cũ thường được thể hiện một cách kín đáo, ý nhị, tuân thủ theo những chuẩn mực đạo đức và thẩm mỹ của xã hội phong kiến.

2.4. Hình Ảnh Ước Lệ, Sáo Mòn

Thơ cũ thường sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng, mang tính sáo mòn như:

  • Trăng: Biểu tượng cho sự tròn đầy, viên mãn, tình yêu đôi lứa.
  • Hoa cúc: Biểu tượng cho sự thanh cao, ẩn dật.
  • ChimLoan: Biểu tượng cho vẻ đẹp cao sang, quyền quý.
  • Liễu: Biểu tượng cho sự chia ly, buồn bã.

Việc lạm dụng những hình ảnh này khiến cho thơ cũ đôi khi trở nên khô khan, thiếu sinh động và thiếu tính sáng tạo.

3. Tại Sao Thơ Cũ Vẫn Được Yêu Thích Đến Ngày Nay?

Mặc dù đã trải qua nhiều biến động lịch sử và sự thay đổi của các trào lưu văn học, thơ cũ vẫn giữ một vị trí quan trọng trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Dưới đây là một số lý do:

3.1. Giá Trị Nghệ Thuật Vượt Thời Gian

Những bài thơ cũ hay nhất vẫn giữ được giá trị nghệ thuật vượt thời gian nhờ ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh gợi cảm, âm điệu du dương và cảm xúc chân thành.

3.2. Gợi Nhớ Về Một Thời Đã Qua

Thơ cũ gợi nhớ về một thời đại đã qua, về những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cội nguồn và bản sắc của mình.

3.3. Thể Hiện Tình Cảm Sâu Lắng

Mặc dù cảm xúc trong thơ cũ thường được thể hiện một cách kín đáo, ý nhị, nhưng lại có sức lay động lòng người sâu sắc. Những bài thơ về tình yêu quê hương, tình bạn, tình người vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ độc giả.

3.4. Tính Giáo Dục Cao

Thơ cũ chứa đựng những bài học sâu sắc về đạo đức, về cách sống, về lẽ đời, giúp chúng ta trở thành những con người tốt đẹp hơn.

4. Thơ Cũ Và Thơ Mới: So Sánh

Đặc điểm Thơ Cũ Thơ Mới
Niêm luật Chặt chẽ Tự do
Ngôn ngữ Hán Việt nhiều Thuần Việt
Đề tài, cảm xúc Hạn chế Phong phú
Hình ảnh Ước lệ, sáo mòn Sáng tạo, độc đáo
Tính cá nhân Ít thể hiện Thể hiện rõ nét
Mục đích Truyền đạt tư tưởng, giáo huấn Bộc lộ cảm xúc, khám phá thế giới nội tâm

5. Những Nhà Thơ Cũ Tiêu Biểu Của Việt Nam

  • Nguyễn Trãi
  • Nguyễn Bỉnh Khiêm
  • Hồ Xuân Hương
  • Nguyễn Du
  • Cao Bá Quát
  • Tản Đà

6. 5 Ý Định Tìm Kiếm Của Người Dùng Về Thơ Cũ

  1. Tìm hiểu định nghĩa về thơ cũ: Người dùng muốn biết thơ cũ là gì, đặc điểm của thơ cũ so với thơ hiện đại.
  2. Tìm kiếm các tác phẩm thơ cũ nổi tiếng: Người dùng muốn đọc những bài thơ cũ hay, được nhiều người biết đến.
  3. So sánh thơ cũ và thơ mới: Người dùng muốn hiểu rõ sự khác biệt giữa hai dòng thơ này.
  4. Tìm hiểu về các nhà thơ cũ tiêu biểu: Người dùng muốn biết về cuộc đời, sự nghiệp và phong cách thơ của các nhà thơ cổ điển.
  5. Tìm kiếm tài liệu phân tích, đánh giá về thơ cũ: Người dùng muốn có cái nhìn sâu sắc hơn về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa văn hóa của thơ cũ.

7. Câu Hỏi Thường Gặp Về Thơ Cũ (FAQ)

  1. Thơ cũ là gì? Thơ cũ là những thể thơ truyền thống của Việt Nam, tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về niêm luật, vần điệu.
  2. Những thể thơ cũ nào phổ biến? Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn.
  3. Thơ cũ khác thơ mới ở điểm nào? Thơ cũ có niêm luật chặt chẽ, sử dụng nhiều Hán Việt, đề tài hạn chế, còn thơ mới thì tự do hơn về hình thức và nội dung.
  4. Tại sao thơ cũ vẫn được yêu thích? Vì nó có giá trị nghệ thuật vượt thời gian, gợi nhớ về quá khứ, thể hiện tình cảm sâu lắng và có tính giáo dục cao.
  5. Ai là những nhà thơ cũ tiêu biểu của Việt Nam? Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà.
  6. Đọc thơ cũ ở đâu? Bạn có thể tìm đọc thơ cũ trên các trang web văn học, thư viện hoặc mua sách tuyển tập thơ cũ.
  7. Làm sao để hiểu thơ cũ? Cần tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, văn hóa, tác giả và các điển tích, điển cố được sử dụng trong bài thơ.
  8. Thơ cũ có còn phù hợp với xã hội hiện đại không? Vẫn phù hợp, vì nó mang những giá trị văn hóa và nghệ thuật mà con người luôn trân trọng.
  9. Có nên học làm thơ cũ không? Nên, vì nó giúp rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ, hiểu biết về văn hóa truyền thống và phát triển tư duy sáng tạo.
  10. Thơ cũ có ảnh hưởng đến thơ hiện đại không? Có, nhiều nhà thơ hiện đại vẫn lấy cảm hứng từ thơ cũ và sử dụng các yếu tố truyền thống trong sáng tác của mình.

Bạn muốn khám phá thêm những điều thú vị về thơ ca Việt Nam? Hãy truy cập CAUHOI2025.EDU.VN để tìm hiểu thêm thông tin chi tiết và đặt câu hỏi của riêng bạn. Chúng tôi luôn sẵn sàng cung cấp những câu trả lời chính xác, đáng tin cậy và dễ hiểu nhất.

Địa chỉ: 30 P. Khâm Thiên, Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Số điện thoại: +84 2435162967

Trang web: CauHoi2025.EDU.VN

0 lượt xem | 0 bình luận

Avatar

Cloud