Vì Sao Câu Thơ “Hôm Qua Em Đi Tỉnh Về” Gợi Nhớ Về Con Đê Đầu Làng?
  1. Home
  2. Câu Hỏi
  3. Vì Sao Câu Thơ “Hôm Qua Em Đi Tỉnh Về” Gợi Nhớ Về Con Đê Đầu Làng?
admin 1 tuần trước

Vì Sao Câu Thơ “Hôm Qua Em Đi Tỉnh Về” Gợi Nhớ Về Con Đê Đầu Làng?

Giới thiệu

Bài thơ “Chân Quê” của Nguyễn Bính không chỉ là nỗi lo âu về sự thay đổi trang phục của một cô thôn nữ mà còn là một tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc. CAUHOI2025.EDU.VN sẽ giúp bạn khám phá ý nghĩa ẩn sau câu thơ “Hôm Qua Em đi Tỉnh Về đợi Em ở Mãi Con đê đầu Làng Khăn Nhung Quần Lĩnh Rộn Ràng” và những giá trị văn hóa truyền thống mà nó gợi lên.

Meta description: Khám phá ý nghĩa sâu sắc của câu thơ “Hôm qua em đi tỉnh về đợi em ở mãi con đê đầu làng khăn nhung quần lĩnh rộn ràng” trong bài “Chân Quê” của Nguyễn Bính. Bài viết từ CAUHOI2025.EDU.VN phân tích giá trị văn hóa, nỗi lo về sự thay đổi và bản sắc dân tộc. Tìm hiểu thêm về văn hóa làng quê, thơ lục bát, Nguyễn Bính.

1. Áo Cài Khuy Bấm và Nỗi Niềm “Chân Quê”

Bài thơ “Chân Quê” kể về sự thay đổi trong cách ăn mặc của cô gái thôn quê sau những ngày ở tỉnh về. Chiếc áo cài khuy bấm, biểu tượng của văn minh thành thị, đã thay thế áo tứ thân, yếm lụa sồi, khăn mỏ quạ, quần nái đen – những trang phục truyền thống quen thuộc. Sự thay đổi này khiến nhân vật trữ tình cảm thấy hụt hẫng và nuối tiếc:

“Nào đâu cái yếm lụa sồi

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân

Nào đâu cái áo tứ thân

Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen.”

Chiếc áo cài khuy bấm “làm khổ” thi sĩ, bởi nó dự cảm về sự xâm nhập của văn minh đô thị vào đời sống thôn quê.

Dãy Núi Nào Có Hướng Vòng Cung Tại Việt Nam?

1.1 Lời Van Em, Giữ Nguyên Quê Mùa

Nhà thơ thốt lên lời van xin thống thiết: “Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa”. Bởi lẽ, sự thay đổi nhỏ bé trong trang phục cũng đủ khiến thi sĩ lo âu.

“Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

Câu thơ thể hiện nỗi lo sợ về sự phai nhạt của bản sắc văn hóa dân tộc.

1.2 Tuyên Ngôn Nghệ Thuật Ẩn Sau Câu Chữ

“Chân Quê” không chỉ đơn thuần là bài thơ tả cảnh, mà còn là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự lấn át của văn minh thị thành đối với văn hóa đồng quê. Chiếc áo cài khuy bấm đang dần thay thế áo tứ thân, khăn mỏ quạ, và sâu xa hơn, là hồn dân tộc, bản sắc dân tộc đang bị phai nhòa.

“Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê.”

Lời tuyên ngôn ngắn gọn nhưng thật thiết tha: Hãy gìn giữ hồn dân tộc đang bị phôi phai bởi văn minh đô thị!

2. Bối Cảnh Lịch Sử và Văn Hóa

“Chân Quê” ra đời trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, khi thực dân Pháp bình định xong Việt Nam và bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa. Xã hội Việt Nam thay đổi từng ngày, đô thị xuất hiện và phát triển, mang theo luồng gió văn minh thị thành vào xã hội vốn được bao bọc bởi văn hóa đồng quê.

Dãy Núi Nào Có Hướng Vòng Cung Tại Việt Nam?

2.1 Văn Minh Thị Thành Lấn Át Văn Hóa Đồng Quê

Văn minh thị thành lấn át văn hóa đồng quê, con người thành thị làm lu mờ con người đồng nội. Những gì bài thơ viết trong “Chân Quê” không hề xa lạ với thực trạng xã hội lúc bấy giờ.

2.2 Sự Lựa Chọn Giữ Gìn Bản Sắc

Trong văn học, hàng loạt xu hướng tìm kiếm cách diễn đạt mới mẻ, tiếp thu ảnh hưởng của văn học lãng mạn phương Tây và các trường phái tượng trưng, siêu thực. Nguyễn Bính vẫn giữ bản chất nhà quê đặc sệt, vẫn là người chân quê giữa những con người thành thị. Bối cảnh thời đại và văn học bấy giờ đã thôi thúc Nguyễn Bính sáng tác “Chân Quê”, như thốt lên những lời tâm sự gan ruột nhất của lòng mình.

3. Nguyễn Bính – Nhà Thơ Của Hồn Quê

Tuyên ngôn nghệ thuật chỉ có giá trị khi được chứng minh bằng chính sáng tác của tác giả. Nguyễn Bính đã suốt đời trung thành với những quan niệm của mình. Thơ ông nâng niu và nuôi giữ cái phần quý giá vô ngần, đó là hồn xưa của đất nước, như Hoài Thanh đã nhận xét. Giữa bao nhiêu con người của văn minh đô thị, Nguyễn Bính xuất hiện với tư cách một nhà thơ chân quê, chân quê trong thể loại, trong thế giới nghệ thuật, chân quê đến cả trong ngôn ngữ diễn đạt. Mỗi câu thơ của ông luôn thấm đượm cái hồn, bản sắc dân tộc đậm đà.

3.1 Thơ Lục Bát Đậm Đà Hồn Quê

Trong khi các thi nhân thơ mới say sưa tìm kiếm những hình thức thể loại mới mẻ, Nguyễn Bính vẫn thủy chung với thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc. Đó là con đường riêng để thi nhân hội nhập với thơ mới, hội nhập mà vẫn giữ cái dáng vẻ chất phác, quê mùa. Nguyễn Bính là một trong số ít những nhà thơ lưu lại dấu ấn của mình với thơ với đời bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào, nồng đượm hồn quê, chất quê.

Thơ lục bát truyền thống phô diễn ý tình bằng giọng kể lể, than thở, thổ lộ. Đọc những câu thơ lục bát Nguyễn Bính, ta thấy gần gũi, thân thương:

“Cành dâu cao, lá dâu cao

Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em.”

Ai quên được bài thơ “Người hàng xóm” – một khúc lục bát thiết tha kể lể, thở than về một mối tình bi thương, một bi kịch tình yêu không lỗi mà kết thúc bằng nước mắt và cái chết. Thơ Nguyễn Bính mang âm vang sâu nặng của truyền thống cũng bởi người đã sử dụng thật nhuần nhị giá trị phô diễn ý tình. Đấy là mảnh hồn xứ sở thân thương.

3.2 “Giữ Nguyên Quê Mùa”

Trước làn sóng văn minh thị thành, thi nhân đã dũng cảm chọn lựa “giữ nguyên quê mùa” như bông hoa chanh nở giữa vườn chanh, giữ mãi sắc hương mộc mạc, bình dị mà trắng trong, tinh khiết. Sự lựa chọn như một thách thức nhằm bảo tồn giá trị có tính ổn định chân quê. Đến với thế giới thơ Nguyễn Bính, ta tìm về hồn quê trong thế giới nghệ thuật rất “Chân Quê”.

Dãy Núi Nào Có Hướng Vòng Cung Tại Việt Nam?

Thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính không xa vời, hư ảo như cái thế giới tiên trong thơ Thế Lữ, cũng không xa lạ như thế giới nước Chàm u uất đớn đau của thơ Chế Lan Viên. Thế giới ấy gần gũi lắm, thân thuộc lắm với mỗi tâm hồn người con đất Việt. In đậm trong thế giới ấy là cái chất quê mộc mạc.

3.3 Ngôn Ngữ Thơ Đậm Chất “Nhà Quê”

Đến với thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp thế giới từ ngữ của người nhà quê. Thi sĩ đã thổi hồn, làm sống dậy cả một thế giới ngôn ngữ quê chân mộc. Chưa ở đâu, những từ ngữ của “người nhà quê” lại được dùng đắc địa như trong thơ Nguyễn Bính:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng”

Hay:

Hội làng mơ giữa mùa thu

Giời cao gió cả giăng như ban ngày

“Lợn không nuôi đặc ao bèo

Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn

Giếng khơi mưa ngập nước tràn

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.”

Những từ ngữ giời, giăng, gió, giầu, giếng khơi, gióng… đọc lên nghe mộc mạc, dân dã quá, như là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân quê vậy. Nó làm nên chất quê kiểng trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính lưu giữ hương đồng nội nguyên trinh phong nhuỵ.

Đọc thơ Nguyễn Bính ta dễ liên tưởng đến giàn thanh âm trong trẻo của “hương đồng gió nội”, của cái nôi văn hóa thuần Việt đậm đà ngân vang trong khi nền văn minh phương Tây đang len lỏi vào từng ngõ ngách sâu kín nhất của thôn quê. Dấu ấn quê trong việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người.” (Tương tư)

“Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi một bước trăm đường xót xa.” (Lỡ bước sang ngang)

Cây đũa thần của nhà thơ tài hoa chạm vào những thành ngữ tục ngữ, khiến cho những con chữ ấy bừng sống dậy sinh động, uyển chuyển. Thành ngữ, tục ngữ đi vào thơ Nguyễn Bính thật tự nhiên, nhuần nhị, tạo nên một thứ ngữ điệu thân quen, dịu ngọt và giàu nhạc tính, tỏa lan cái âm hưởng của ca dao, dân ca, làm nên linh hồn dân tộc.

Số từ trong thơ Nguyễn Bính cũng làm thành “tính cách quê” của thơ ông. Số từ không nâng đỡ cái tư duy rạch ròi trong thời buổi đô thị mà nó thể hiện sự chất phác, mộc mạc, thật như đếm của người quê.

“Nhà em cách bốn quả đồi

Cách ba ngọn núi cách đôi cánh rừng

Nhà em xa cách quá chừng

Em van anh đấy anh đừng thương em.”

Bốn – ba – đôi, cái cách đếm phát lộ sự trong trắng đến hồn nhiên của người con gái quê trong tình yêu.

Cách đo lường thời gian, không gian trong thơ ông thật độc đáo nhưng cũng xiết bao gần gũi, quen thuộc như cách nói của người nhà quê, tạo nên một nét đặc sắc trong hệ thống ngôn ngữ chân quê:

“Láng giềng đã đỏ đèn đâu

Chờ em chừng giập miếng trầu em sang”

“Hoa gạo tàn đi cho sắc đỏ

Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan” (Cuối tháng ba)

Khái niệm thời gian trừu tượng có lẽ không hợp lắm với lối suy tưởng của người quê. Khái niệm thời gian trong thơ Nguyễn Bính có xu hướng “vật thể hóa” cho thành cụ thể. Cách đo không gian trong thơ ông cũng hết sức chân mộc, cụ thể:

“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”

“Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”

Mặc cho ai đó say sưa với ánh đèn màu lấp lánh của chốn thị thành, Nguyễn Bính vẫn mãi ru hồn vào điệu quê đã ăn sâu trong tâm thức. Trong lớp các nhà thơ chân quê, gương mặt Nguyễn Bính vẫn nổi bật chẳng phai nhòa bởi dáng vẻ riêng của mình. Nếu Anh Thơ đem được vào thơ mình cảnh quê, Đoàn Văn Cừ giúp người đọc hiểu được tục quê, Bàng Bá Lân nhập hồn thơ vào cảnh quê, tục quê thì Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ hiếm hoi đã nuôi giữ, nâng niu cái hồn quê, hồn xứ sở như lời tuyên ngôn nghệ thuật của ông trong “Chân Quê”.

4. Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh Về Văn Hóa

Nguyễn Bính không phải là người duy nhất gióng tiếng chuông cảnh tỉnh về thực trạng phôi phai của nền văn hóa đồng quê, của bản sắc dân tộc. Ta gặp trong lời thở than của Phạm Công Trứ hình ảnh cô thôn nữ “áo chẽn quần bò” – một biến thế của “áo cài khuy bấm” ngày xưa. Ám ảnh mãi trong người đọc hình ảnh đám ma trinh nữ trong Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp, một biểu tượng đau đớn, nhức nhối nhắc nhở mọi người nền văn minh đô thị đang giết chết văn hóa đồng quê. Điều đáng quý là Nguyễn Bính là một trong những người đầu tiên dự cảm được vấn đề xã hội ấy và nói bằng thơ thật kín đáo, ý nhị.

Dãy Núi Nào Có Hướng Vòng Cung Tại Việt Nam?

4.1 Tuyên Ngôn Nghệ Thuật Dứt Khoát

Tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính giản dị nhưng dứt khoát. Nguyễn Bính không phải là người thời xưa, càng không phải là người bảo thủ không chịu tiếp thu luồng gió mới từ trời Tây thổi tới. Thơ ông không hiếm những câu thơ “mô đu” nhưng ông đã sống bằng cả tâm hồn mình với những giá trị vĩnh viễn của di sản dân tộc. Vì thế, thơ ông nghiêng về tính truyền thống hơn là sự cách tân. Đó cũng là dấu ấn Nguyễn Bính trong thơ, trong đời.

4.2 Giá Trị Dân Tộc Trong Thơ Nguyễn Bính

Đặt tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính trong lịch sử văn học nhân loại mới thấy nó đúng đắn và tiến bộ. Những nhà văn, nhà thơ lớn bao giờ trước hết cũng phải là người nghệ sĩ của dân tộc mình. Thơ Ê-xênhin sống mãi trong lòng người đọc bởi thơ ông đã thấm đẫm tâm hồn Nga, tính cách Nga. Những trang văn của Kawabata (Xứ tuyết, Cố đô, Ngàn cánh hạc,…) sẽ chẳng xúc động lòng người đến thế nếu không phải thắm đượm trong đó cái hồn dân tộc Nhật, cái chất văn hóa Nhật truyền thống tiềm ẩn trong mỗi con người, mỗi nghi thức trà đạo… Thơ Nguyễn Bính dù không có những tìm tòi cách tân theo hướng hiện đại hóa nhưng vẫn là hành trang cùng mỗi con người bởi thơ ông luôn đậm đà bản sắc dân tộc.

“Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê”

Hai câu thơ giản dị gói trọn một quan niệm nghệ thuật suốt đời Nguyễn Bính trung thành theo đuổi. Đó cũng chính là sức sống của thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ “chân quê” trên thi đàn văn học Việt Nam bởi ông đã sống thủy chung bằng cả tấm lòng mình với những di sản tinh thần truyền thống của dân tộc, xứng đáng với danh hiệu người nghệ sĩ của dân tộc.

FAQ – Câu Hỏi Thường Gặp Về Bài Thơ “Chân Quê”

  1. Câu hỏi: Bài thơ “Chân Quê” của Nguyễn Bính nói về điều gì?
    Trả lời: Bài thơ nói về sự thay đổi trong cách ăn mặc của cô gái thôn quê và nỗi lo về sự phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc.

  2. Câu hỏi: Chiếc áo cài khuy bấm tượng trưng cho điều gì trong bài thơ?
    Trả lời: Chiếc áo cài khuy bấm tượng trưng cho văn minh thị thành và sự xâm nhập của nó vào đời sống thôn quê.

  3. Câu hỏi: Vì sao Nguyễn Bính lại van xin cô gái “giữ nguyên quê mùa”?
    Trả lời: Vì ông lo sợ sự thay đổi nhỏ bé trong trang phục sẽ dẫn đến sự phai nhạt của bản sắc văn hóa truyền thống.

  4. Câu hỏi: “Chân Quê” được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính, đúng không?
    Trả lời: Đúng, bài thơ được xem là tuyên ngôn nghệ thuật, thể hiện quan điểm của Nguyễn Bính về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

  5. Câu hỏi: Bối cảnh lịch sử nào đã ảnh hưởng đến sự ra đời của “Chân Quê”?
    Trả lời: Bối cảnh thực dân Pháp khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam thay đổi và văn minh thị thành phát triển.

  6. Câu hỏi: Nguyễn Bính đã giữ gìn bản sắc quê hương trong thơ như thế nào?
    Trả lời: Ông sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ mộc mạc, hình ảnh gần gũi với đời sống thôn quê.

  7. Câu hỏi: Điều gì khiến thơ Nguyễn Bính sống mãi trong lòng người đọc?
    Trả lời: Thơ ông thấm đẫm bản sắc dân tộc, thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước.

  8. Câu hỏi: Ngoài Nguyễn Bính, còn nhà thơ nào viết về đề tài văn hóa đồng quê bị phôi phai?
    Trả lời: Phạm Công Trứ, Nguyễn Huy Thiệp cũng viết về đề tài này.

  9. Câu hỏi: Tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính có ý nghĩa gì trong lịch sử văn học?
    Trả lời: Nó khẳng định vai trò của người nghệ sĩ trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

  10. Câu hỏi: Câu thơ “Hôm qua em đi tỉnh về” có ý nghĩa gì?
    Trả lời: Câu thơ thể hiện sự thay đổi trong lối sống và văn hóa, khi cô gái trở về từ tỉnh thành, mang theo những ảnh hưởng của cuộc sống đô thị, làm “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

Kết luận

“Chân Quê” của Nguyễn Bính là một bài thơ giản dị nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Câu thơ “Hôm qua em đi tỉnh về đợi em ở mãi con đê đầu làng khăn nhung quần lĩnh rộn ràng” gợi nhớ về những giá trị truyền thống đang dần bị thay thế bởi văn minh đô thị.

Bạn muốn tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam hoặc có những câu hỏi khác? Hãy truy cập CAUHOI2025.EDU.VN để khám phá thêm nhiều thông tin hữu ích và nhận được sự tư vấn tận tình. Địa chỉ của chúng tôi là 30 P. Khâm Thiên, Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam. Bạn cũng có thể liên hệ qua số điện thoại +84 2435162967 hoặc truy cập trang “Liên hệ” trên website CauHoi2025.EDU.VN để được hỗ trợ nhanh chóng.

0 lượt xem | 0 bình luận

Avatar

Cloud