**Một Số Bài Thơ Trào Phúng** Hay Nhất Của Các Tác Giả Nổi Tiếng Việt Nam
  1. Home
  2. Câu Hỏi
  3. **Một Số Bài Thơ Trào Phúng** Hay Nhất Của Các Tác Giả Nổi Tiếng Việt Nam
admin 7 giờ trước

**Một Số Bài Thơ Trào Phúng** Hay Nhất Của Các Tác Giả Nổi Tiếng Việt Nam

Bạn đang tìm kiếm những bài thơ trào phúng đặc sắc, hài hước nhưng không kém phần sâu cay? CauHoi2025.EDU.VN tổng hợp những tác phẩm trào phúng hay nhất của Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tú Mỡ, giúp bạn hiểu rõ hơn về thể loại thơ này. Khám phá ngay để có những giây phút thư giãn và suy ngẫm! Các từ khóa liên quan: thơ châm biếm, văn học trào phúng, thơ hài hước.

1. Thơ Trào Phúng Là Gì?

Thơ trào phúng là một thể loại thơ đặc biệt, sử dụng yếu tố trào phúng, hài hước để phê phán, châm biếm hoặc đả kích một đối tượng, hiện tượng xã hội nào đó. Mục đích của thơ trào phúng không chỉ là gây cười mà còn là để thức tỉnh, phê phán những điều bất cập, thói hư tật xấu trong xã hội.

Những nhà thơ nổi tiếng với thể loại thơ trào phúng bao gồm:

  • Nguyễn Khuyến
  • Hồ Xuân Hương
  • Tú Xương
  • Tú Mỡ

2. Ý Định Tìm Kiếm Của Người Dùng

  1. Tìm kiếm định nghĩa: Người dùng muốn hiểu rõ khái niệm thơ trào phúng là gì.
  2. Tìm kiếm tác giả nổi tiếng: Người dùng muốn biết những tác giả tiêu biểu của thể loại thơ này.
  3. Tìm kiếm ví dụ minh họa: Người dùng muốn đọc những bài thơ trào phúng cụ thể để hiểu rõ hơn.
  4. Tìm kiếm phân tích: Người dùng muốn tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ trào phúng.
  5. Tìm kiếm nguồn tham khảo uy tín: Người dùng muốn tìm một nguồn thông tin đáng tin cậy về thơ trào phúng.

3. Thơ Trào Phúng Hay Của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835-1909) được xem là một trong những “cây đại thụ” của làng thơ trào phúng Việt Nam. Thơ của ông mang đậm tính hiện thực, phê phán sâu sắc xã hội phong kiến đương thời nhưng vẫn giữ được sự thâm trầm, kín đáo.

3.1. Chế Học Trò Ngủ Gật

Bài thơ “Chế học trò ngủ gật” phê phán tình trạng học hành hình thức, thiếu thực chất của học trò thời xưa.

Trò trệt chi bay học cạnh thầy,

Gật gà gật gưỡng nực cười thay!

Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,

Mắt lại lim dim nhắm đã cay.

Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,

Ma men chi đấy tít mù say.

Dễ thường bắt chước Chu Y đó,

Quyển có câu thần vậy gật ngay.

3.2. Tiến Sĩ Giấy

Bài thơ “Tiến sĩ giấy” châm biếm những người có danh vị hão huyền, không có thực tài.

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

3.3. Lỗi Gái Góa

Bài thơ “Lỗi gái góa” thể hiện sự cảm thông với những người phụ nữ góa bụa, đồng thời phê phán những hủ tục phong kiến.

Chàng chẳng biết gái này gái góa

Buồn nằm suông, suông cả áo cơm

Khéo thay cái mụ tá ươm

Đem chàng trẻ tuổi ép làm lứa đôi.

Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc

Gái già này sức vóc được bao?

Muốn sao, chiều chẳng được sao

Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?

Lấy chồng vốn nghĩ câu ăn mặc

Chẳng ngờ rằng đói rách hơn người;

Vốn xưa cha mẹ dặn lời

Tư bôn lại phải kẻ cười người chê.

Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?

Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay

Thương thì gạo vải cho vay

Lấy chồng thì gái góa này xin van!

3.4. Chừa Rượu

Bài thơ “Chừa rượu” thể hiện sự giằng xé giữa lý trí và đam mê, giữa việc muốn từ bỏ thói quen xấu và sự khó khăn khi thực hiện.

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa

Hay ưa nên nỗi không chừa được

Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

3.5. Ông Phỗng Đá

Bài thơ “Ông phỗng đá” phê phán những kẻ vô cảm, thờ ơ trước vận mệnh của đất nước.

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?

Mặt trơ như đá vững như đồng!

Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,

Non nước đầy vơi có biết không?

3.6. Hoài Cổ

Bài thơ “Hoài cổ” thể hiện nỗi buồn trước sự thay đổi của thời thế, sự suy tàn của những giá trị xưa cũ.

Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,

Sự đời đến thế, thế thôi thôi!

Rừng xanh núi đá hơn nghìn dặm,

Nước độc ma thiêng mấy vạn người.

Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,

Phá tung phên giậu hạ đi rồi.

Thôi thôi đến thế thôi thôi nhỉ,

Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.

3.7. Muốn Lấy Chồng

Bài thơ “Muốn lấy chồng” thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

Bực gì bằng gái trực phòng không?

Tơ tưởng vì chung một tấm chồng.

Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,

Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.

Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,

Giả dại, nhiều khi nói nói bông.

Mới biết có chồng như có cánh,

Giang san gánh vác nhẹ bằng lông.

3.8. Làm Ruộng (Chốn Quê)

Bài thơ “Làm ruộng” (Chốn quê) thể hiện nỗi khổ của người nông dân trước sưu cao thuế nặng.

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,

Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

3.9. Cua Chơi Trăng

Bài thơ “Cua chơi trăng” thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của trăng thu.

Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,

Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.

Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,

Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.

Cung quế chốn vườn hương mới bén,

Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.

Một mai cá nước cua vui phận,

Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?

3.10. Anh Giả Điếc

Bài thơ “Anh giả điếc” châm biếm những kẻ giả vờ ngây ngô để che đậy sự thật.

Trong thiên hạ có anh giả điếc,

Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!

Chẳng ai ngờ “sáng tai hơn, điếc tai cày”,

Lối điếc ấy sau này em muốn học.

Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc

Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.

Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.

Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;

Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc

Điếc như thế ai không muốn điếc?

Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!

Hỏi anh, anh cứ ậm à.

3.11. Chợ Đồng

Bài thơ “Chợ Đồng” miêu tả khung cảnh chợ quê ngày Tết, đồng thời thể hiện nỗi lo toan của người dân nghèo.

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu, tường chừng được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

3.12. Chế Ông Đồ Cự Lộc

Bài thơ “Chế ông đồ Cự Lộc” châm biếm những thầy đồ dốt nát, chỉ giỏi ba hoa.

Văn hay chữ tốt ra tuồng,

Văn dai như chảo, chữ vuông như hòm.

Vẽ thầy như vẽ con tôm,

Vẽ tay ngoáy cám, vẽ mồm húp tương.

Vẽ lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,

Vẽ cô đầu nói móc có vài câu:

Anh chẳng sang, mà cũng chẳng giàu.

Hầu bao ních, rận bâu quanh chiếu;

Khăn nhuộm lố lố mùi nước điếu,

Nón sơn không méo cũng không tròn.

Quần vải thô, ngại giặt ngả màu son,

Giầy cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lấy.

Phong lưu ấy, mà tính tình ấy,

Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,

Xinh thay diện mạo anh hùng!

So Sánh Khởi Nghĩa Yên Thế và Phong Trào Cần Vương: Chi Tiết Nhất?

4. Thơ Trào Phúng Của Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương (1772-1822) được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” với những bài thơ trào phúng độc đáo, táo bạo, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến bất công.

4.1. Vịnh Đời Người

Bài thơ “Vịnh đời người” thể hiện sự chán chường, thất vọng trước cuộc đời đầy gian trá, bất công.

Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày

Dầu có ngàn vàng khó đổi thay

Trong núi ngàn năm cây vẫn có

Dưới trần trăm tuổi dễ không ai

Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán

Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy

Đắng xót ghê thay mùi tục lụy

Bực mình theo Cuội tới cung mây.

4.2. Vịnh Cái Quạt

Bài thơ “Vịnh cái quạt” sử dụng hình ảnh chiếc quạt để gợi tả vẻ đẹp kín đáo, duyên dáng của người phụ nữ.

Mười bảy hay là mười tám đây

Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.

Mỏng dày từng ấy, chành ba góc

Rộng hẹp dường nào, cắm một cay

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.

Chúa dấu vua yêu một cái này.

4.3. Thiếu Nữ Ngủ Ngày

Bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” miêu tả vẻ đẹp gợi cảm, đầy sức sống của người thiếu nữ trong giấc ngủ trưa hè.

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,

Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông.

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì cũng dở ở không xong.

4.4. Hỏi Trăng

Bài thơ “Hỏi trăng” thể hiện sự tò mò, tinh nghịch của tác giả trước vẻ đẹp huyền ảo của trăng thu.

Một trái trăng thu chín mỏm mòm,

Nảy vừng quế đỏ lòm lom!

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.

4.5. Mắng Học Trò Dốt I

Bài thơ “Mắng học trò dốt I” thể hiện sự bực bội, châm biếm đối với những học trò lười biếng, dốt nát.

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ.

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!

4.6. Mắng Học Trò Dốt II

Bài thơ “Mắng học trò dốt II” tiếp tục châm biếm sự dốt nát, lười biếng của học trò.

Dắt díu nhau lên trước cửa đồn

Cũng đòi học nói, nói không nên.

Ai về nhắn nhủ phường lòi tói,

Muốn sống đem vôi quét trả đồn.

4.7. Bà Bán Bột Mỳ Khóc Chồng

Bài thơ “Bà bán bún mỳ khóc chồng” thể hiện sự xót thương, đau đớn của người vợ trước sự ra đi của chồng.

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì

Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti

Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo

Cay đắng chàng ơi vị quế chi

Thạch nhũ, trần bì sao để lại

Quy thân, liên nhục tẩm mang đi

Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ

Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.

4.8. Đá Ông Bà Chồng

Bài thơ “Đá ông bà chồng” sử dụng hình ảnh đá ông bà chồng để gợi tả sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ.

Khéo khéo bày trò tạo hóa công

Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng

Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc

Thớt dưới sương pha đượm má hồng

Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt

Khối tình cỗi mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già dặn

Chả trách người ta lúc trẻ trung.

4.9. Chế Sư

Bài thơ “Chế sư” châm biếm những nhà sư giả dối, chỉ lo vun vén cho bản thân.

Chẳng phải Ngô chẳng phải ta,

Đầu thì trọc lóc áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,

Vải nấp sau lưng sáu bảy bà.

Khi cảnh khi tiu khi chõm chọe,

Giọng hỉ giọng ha.

Tu lâu có nhẽ lên sư cụ,

Ngất ngưởng tòa sen nó đã mà.

4.10. Đánh Cờ

Bài thơ “Đánh cờ” mượn việc đánh cờ để nói về cuộc đời, về những thăng trầm, được mất trong cuộc sống.

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,

Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.

Hẹn rằng đấu trí mà chơi,

Cấm ngoại thủ không ai được biết.

Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,

Để đôi ta quyết liệt một phen.

Quân thiếp trắng, quân chàng đen,

Hai quân ấy chơi nhau đã lửa.

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,

Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.

Hai xe hà, chàng gác hai bên,

Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,

Đem tốt đầu dú dí vô cung,

Thiếp đang mắc nước xe lồng,

Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,

Thua thì thua quyết níu lấy con.

Khi vui nước nước non non,

Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

So Sánh Khởi Nghĩa Yên Thế và Phong Trào Cần Vương: Chi Tiết Nhất?

5. Thơ Trào Phúng Của Tú Xương

Tú Xương (1870-1907), tên thật là Trần Tế Xương, là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam. Thơ của ông mang đậm tính hiện thực, châm biếm sâu sắc những thói hư tật xấu của xã hội đương thời.

5.1. Văn Tế Sống Vợ

Bài “Văn tế sống vợ” là một trong những bài thơ trào phúng đặc sắc nhất của Tú Xương, thể hiện sự yêu thương, trân trọng đối với người vợ tảo tần, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu của xã hội.

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ

Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ

Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?

Người ung dung, tính hạnh khoan hòa, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!

Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười

Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ

Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai

Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ

Ông tu tấc cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu

Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ

Thế mà :

Mình bảo mình đi, mình không chịu ở

Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.

Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?

Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?

Thôi thôi

Chết quách yên mồ

Sống càng nặng nợ

Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay

Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ

Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ

Tớ nuôi con cho có rễ có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ.

5.2. Thương Vợ

Bài thơ “Thương vợ” thể hiện sự cảm thông, xót xa trước những vất vả, hy sinh của người vợ.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!

5.3. Đánh Tổ Tôm

Bài thơ “Đánh tổ tôm” mượn trò chơi tổ tôm để nói về cuộc đời, về những may rủi, được mất trong cuộc sống.

Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ,

Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm,

Bài trạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm,

Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rưởi.

Cũng có lúc không chi thì bát sách,

Cũng có khi bạch định bốc yêu hồng;

Cất bài lên ông lão vẫn lẫn vòng,

Không đâu cả gặp kỳ năm bảy phỗng.

Cũng có ván tôm lèo lên chỗ rộng,

Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay trên.

Gớm ghê thay đen thực là đen!

Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ.

May mắn nhẹ hữu duyên năng tái ngộ,

Bĩ cực rồi đến độ thái lai;

Tiếng tam khôi chi để nhường ai,

Hết bạch lại hồng, thông mãi mãi.

Nào những kẻ tay trên ban nãy,

Đến bây giờ thay thảy dưới tay ta;

Tiếng bài cao lừng lẫy khắp gần xa,

Bát vạn ấy người ta ai dám đọ.

Thế mới biết tổ tôm có đen thì có đỏ.

Thì anh hùng vị ngộ có lo chi;

Trước sau, sau trước làm gì?

5.4. Năm Mới Chúc Nhau

Bài thơ “Năm mới chúc nhau” châm biếm những lời chúc tụng sáo rỗng, hình thức trong dịp năm mới.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

Phen này ông quyết đi buôn cối,

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:

Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?

Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,

Đồng rụng, đồng rơi, lộc phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:

Đứa thì mua tước, đứa mua quan.

Phen này ông quyết đi buôn lọng,

Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:

Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.

Phố phường chật hẹp, người đông đúc,

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:

Chúc cho khắp hết ở trong đời.

Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,

Sao được cho ra cái giống người.

5.5. Than Thân

Bài thơ “Than thân” thể hiện sự chán chường, bất mãn trước cuộc đời nghèo khó, thi cử lận đận.

Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,

Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.

Mấy khoa hương thí không đâu cả,

Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.

Gạo cứ lệ ăn đong bữa một,

Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.

Bấc thang lên hỏi ông trời nhẹ:

Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi?

5.6. Sông Lấp

Bài thơ “Sông Lấp” thể hiện sự tiếc nuối trước sự thay đổi của cảnh vật, sự biến mất của những giá trị xưa cũ.

Sông kia rày đã nên đồng,

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.

Vắng nghe tiếng ếch bên tai,

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

So Sánh Khởi Nghĩa Yên Thế và Phong Trào Cần Vương: Chi Tiết Nhất?

6. Thơ Trào Phúng Của Tú Mỡ

Tú Mỡ (1900-1976), tên thật là Hồ Trọng Hiếu, là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam. Thơ của ông mang đậm tính thời sự, châm biếm sâu sắc những tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu của con người.

6.1. Tượng Lo

Bài thơ “Tượng lo” châm biếm sự mê tín dị đoan, sự thiếu hiểu biết của người dân.

A di đà Phật!

Bụt trên tòa ngồi ngất ngưởng bệ sen

Tưởng rằng nhà Bụt chí hiền

Từ bi từ tại, ai phiền nhiễu chi!

Nào ngờ gặp thời kỳ tranh chiến

Cõi phàm trần tai biến lung tung

Loạn đằng Tây, loạn đằng Đông

Cảnh từ bi cũng hãi hùng, tượng lo…

Cũng là bởi duyên do vạ vặt

Tự anh chàng họ Hít tên Le

Dùng dấu hiệu thực éo le

Trăm nghìn vạn dấu, thiếu gì dấu hay

Mà lại chọn nhầm ngày chữ thập

Dấu hiệu riêng nhà Phật từ bi

Để sinh ra chuyện hồ nghi

Giận cá chém thớt, biết thì tại sao?

Chữ thập ngoặc ghép vào quốc cấm

Phướn, cờ còn giấu dấm được chăng

Khắc vào tượng gỗ, mần răng?

Có khi bị đẽo, nên rằng… tượng lo.

6.2. Ông Trẻ Già

Bài thơ “Ông trẻ già” châm biếm những kẻ đạo đức giả, làm ra vẻ lão thành nhưng thực chất chỉ là những kẻ rỗng tuếch.

Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”

Đạo mạo làm ra mặt lão thành!

Trước mắt long lanh đôi kính trắng,

Dưới cằm lún phún sợi râu xanh.

Đứng ngồi khệnh khạng oai nghiêm giả,

Ăn nói màu mè đạo đức tuênh!

Động hé môi ra là … thở hắt,

Than cho thế thái với nhân tình.

6.3. Phu Kéo Xe

Bài thơ “Phu kéo xe” châm biếm chế độ hà khắc, bất công của xã hội cũ, khi ngay cả việc kéo xe cũng cần phải có bằng cấp.

Xưa nay các học trò lười

Mẹ cha mắng mỏ, nặng lời mỉa mai

Rằng: “Mày lêu lổng, rông dài

Lớn lên thôi đến suốt đời kéo xe!”

Bây giờ thời buổi khắt khe

Kéo xe cũng hóa ra nghề khó khăn!

Cu ly cũng phải lấy… bằng

Của tòa Đốc lý chứng rằng… chính tông

Làng người da sắt, xương đồng

Khỏe chân, cứng gối, vốn giòng kiện nhi

Danh trong, giá sạch như ly

Chẳng khi can án, chưa khi ngồi tù

Bao lần giấy, bấy lần… xu

Mới làm nên chức đại “phu xe hàng”

Phải đâu là việc dễ dàng!

6.4. Gây Quan

Bài thơ “Gây quan” châm biếm nạn mua quan bán chức, sự tha hóa của quan lại trong xã hội cũ.

Mỗi năm nhà nước mở khoa thi

Để kén trong trung bắc lưỡng kỳ

Lấy mặt sỏi sành ra giúp việc

Bổ làm tập sự ngạch quan chi

Mỗi năm các cậu lớp tân khoa

Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa

Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng

Cũng là lừng lẫy khắp gần xa

Quảng cáo công khai, các nhật trình

Đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,

Làm như các cậu “quan non” ấy

Là những kỳ đồng mới tái sinh

Trong làng trưởng giả những cô nào

Sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào

Mấp máy hòng lên bà lớn tắt

Mơ màng của dẫn lại tay trao

Cụ thượng Quỷnh ta cũng sướng ran

Xoa tay hỉ hả cái gan vàng

Mừng cho nước Việt còn cơ khá

Vì chẳng bao giờ tiệt giống quan.

6.5. Nhắn Nhủ Ông Nghị

Bài thơ “Nhắn nhủ ông nghị” châm biếm những ông nghị bù nhìn, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc mà không quan tâm đến dân chúng.

Áo sa, khăn nhiễu, giày ban

Kính trắng, gọng vàng, tay cắp cặp da

Ấy là ông nghị vùng ta

Xúng xa xúng xính đi ra hội đồng

Mấy lời nhắn nhủ cùng ông

Có ra hội đồng thì miệng phải to.

Xin đừng khúm núm co ro

Nói không ra tiếng họ cho rằng đần

Cũng đừng ngẩng mặt tần ngần

Ngồi nghe diễn thuyết ngủ dần thiu thiu…

6.6. Khoe Lười

Bài thơ “Khoe lười” châm biếm những kẻ lười biếng, chỉ giỏi ngụy biện cho sự lười biếng của mình.

Anh em chớ bảo ta lười,

Làm việc cho hay phải thức thời.

Xuân hẵy còn chơi cho phỉ chí,

Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.

Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,

Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.

Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,

Anh em chớ bảo ta lười.

6.7. Còn Say

Bài thơ “Còn say” châm biếm những kẻ bảo thủ, lạc hậu, không chịu thay đổi theo thời thế.

Đã lâu, bác mới ra đời,

Tưởng rằng gọt óc theo thời duy tân.

Nào ngờ bác vẫn say lăn,

Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.

Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,

Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,

Người đời hoạt động xôn xao,

Bác về triết lý thanh cao: bác lười!

Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.

Bác buồn trời gió, rồi trời lại mưa!

Giải buồn chén tít say sưa,

Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!

Rượu vào, rỗng rỗng thơ tuôn,

Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,

Bác rằng: khách tục bon chen,

Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.

Đời rằng: bác dở, bác ương,

Giả danh ẩn dật là phường bỏ đi.

Bác rằng: chữ thời quý chi.

Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?

Đời rằng: thuận với lẽ trời,

Sống mà gánh vác việc đời mới hay.

Còn như sống để mà … say.

Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?

Rung đùi, rượu nốc tì tì,

Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!

6.8. Sư Cô Ở Cữ

Bài thơ “Sư cô ở cữ” châm biếm những nhà sư giả dối, không giữ giới luật.

Chùa Yên Lạc, phủ Khoái Châu

(Tên sao khéo đặt nên câu hữu tình!)

Có bà sư trẻ xinh xinh,

Tuổi chừng ba chục xuân xanh đương vừa.

Vẻ người bầu bĩnh dễ ưa,

Nõn nà tay ngọc, mỡn mơ má hồng.

Tuy duyên lỡ vẻ mặn nồng,

Sư bà vẫn muốn hết lòng chân tu.

0 lượt xem | 0 bình luận

Avatar

Cloud